Tại khoản 1 Điều 2 Luật Người khuyết tật 2010 định nghĩa:
Tại khoản 1 Điều 2 Luật Người khuyết tật 2010 định nghĩa:
Theo khoản 6 Điều 5 Nghị định 20/2021/NĐ-CP, người khuyết tật nặng, người khuyết tật đặc biệt nặng theo quy định pháp luật về người khuyết tật là đối tượng được hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng.
Về mức hỗ trợ, từ 01/7/2021, mức chuẩn trợ giúp xã hội sẽ tăng lên 360.000 đồng/tháng (thay vì 270.000 đồng/tháng như quy định trước đây). Theo đó, căn cứ Điều 6 Nghị định 20, người khuyết tật được hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng như sau:
– 720.000 đồng đối với người khuyết tật đặc biệt nặng;- 900.000 đồng đối với trẻ em khuyết tật đặc biệt nặng hoặc người cao tuổi là người khuyết tật đặc biệt nặng;
– 540.000 đồng đối với người khuyết tật nặng;
– 720.000 đồng đối với trẻ em khuyết tật nặng hoặc người cao tuổi là người khuyết tật nặng.
Căn cứ Điều 9, người khuyết tật thuộc đối tượng trợ cấp xã hội hàng tháng sẽ được cấp thẻ bảo hiểm y tế theo quy định của pháp luật về bảo hiểm y tế.
Trường hợp được cấp nhiều loại thẻ bảo hiểm y tế thì chỉ được cấp một thẻ bảo hiểm y tế có quyền lợi bảo hiểm y tế cao nhất.
Công ty Luật Thái Dương FDI Hà Nội
Email: [email protected]
Website: https://luatthaiduonghanoi.com
Fanpage: https://www.facebook.com/luatthaiduongfdihanoi
Địa chỉ: Tòa nhà Licogi 13, Số 164 Khuất Duy Tiến, Thanh Xuân, Hà Nội
1. Thế nào là người khuyết tật nhẹ:
Người khuyết tật nhẹ là người khuyết tật không thuộc trường hợp được quy định về người khuyết tật nặng, hay người khuyết tật đặc biệt nặng. Họ là những chủ thể bị khuyết tật, khiếm khuyết một bộ phận nào đó trên cơ thể. Song, khuyết tật đó không làm mất đi khả năng sinh hoạt của họ. Các chủ thể này vẫn có thể tự mình thực hiện các công việc của một người bình thường. Hoặc sự khiếm khuyết chỉ làm ảnh hưởng đến đời sống của họ một phần chứ không phải hoàn toàn.
2. Cách phân biệt và căn cứ để phân loại các mức độ khuyết tật:
Điểm khác biệt lớn nhất dùng để phân biệt người khuyết tật nhẹ, nặng và đặc biệt nặng của các cá nhân là khả năng kiểm soát được hành vi, sự phụ thuộc vào người chăm sóc. Càng ở mức độ nặng, thì người khuyết tật càng khó, hoặc không thể điều khiển được hành vi của mình; phụ thuộc hoàn toàn vào người chăm sóc. Hội Hội đồng xác định sẽ xác định vào khả năng kiểm soát hành vi, tính phụ thuộc; và quan sát trực tiếp người khuyết tật thông qua thực hiện hoạt động đơn giản phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân hàng ngày, sử dụng bộ câu hỏi theo tiêu chí về y tế, xã hội và phương pháp khác theo quy định để xác định mức độ khuyết tật.
Sự phân biệt người khuyết tật nhẹ, nặng, đặc biệt nặng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc đưa ra phương hướng hỗ trợ một cách tốt nhất; nhằm tạo điều kiện để các chủ thể này được phát triển trong một điều kiện ổn định và toàn diện nhất.
3. Căn cứ xác định mức khuyết tật nhẹ:
Căn cứ Khoản 3 Điều 4 Nghị định 28/2012/NĐ-CP quy định như sau:
“Điều 4. Xác định mức độ khuyết tật
3. Người khuyết tật đã có kết luận của Hội đồng giám định y khoa về khả năng tự phục vụ, mức độ suy giảm khả năng lao động trước ngày Nghị định này có hiệu lực thì Hội đồng xác định mức độ khuyết tật căn cứ kết luận của Hội đồng giám định y khoa để xác định mức độ khuyết tật như sau:
a) Người khuyết tật đặc biệt nặng khi được Hội đồng giám định y khoa kết luận không còn khả năng tự phục vụ hoặc suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên;
b) Người khuyết tật nặng khi được Hội đồng giám định y khoa kết luận có khả năng tự phục vụ sinh hoạt nếu có người, phương tiện trợ giúp một phần hoặc suy giảm khả năng lao động từ 61% đến 80%;
c) Người khuyết tật nhẹ khi được Hội đồng giám định y khoa kết luận có khả năng tự phục vụ sinh hoạt hoặc suy giảm khả năng lao động dưới 61%”.
Theo đó, căn cứ xác định mức độ khuyết tật là khả năng thực hiện hoạt động đơn giản phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân hàng ngày. Hội đồng xác định mức độ khuyết tật sử dụng bộ câu hỏi theo tiêu chí về y tế, xã hội và phương pháp khác để đánh giá khả năng thực hiện hoạt động trên. Đối chiếu quy định trên thì giám định khuyết tật bị suy giảm 60% khả năng lao động có thể được xác định là người khuyết tật nhẹ.
4. Các chế độ cho người khuyết tật nhẹ
Căn cứ Khoản 3 Điều 16 Nghị định 28/2012/NĐ-CP quy định như sau:
“Điều 16. Hệ số tính mức trợ cấp xã hội hàng tháng, mức hỗ trợ chi phí mai táng
1. Hệ số tính mức trợ cấp xã hội hàng tháng đối với người khuyết tật sống tại hộ gia đình được quy định như sau:
a) Hệ số hai (2,0) đối với người khuyết tật đặc biệt nặng;
b) Hệ số hai phẩy năm (2,5) đối với người khuyết tật đặc biệt nặng là người cao tuổi, người khuyết tật đặc biệt nặng là trẻ em;
c) Hệ số một phẩy năm (1,5) đối với người khuyết tật nặng;
d) Hệ số hai (2,0) đối với người khuyết tật nặng là người cao tuổi, người khuyết tật nặng là trẻ em.
… 3. Người khuyết tật quy định tại Khoản 1 Điều này đang được hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng, khi chết được hỗ trợ chi phí mai táng bằng mức hỗ trợ mai táng đối với đối tượng bảo trợ xã hội. Trường hợp người khuyết tật thuộc diện hưởng các mức hỗ trợ chi phí mai táng khác nhau thì chỉ được hưởng một mức cao nhất”.
Bên cạnh đó, theo quy định tại Điều 9 Nghị định 136/2013/NĐ-CP
1. Đối tượng bảo trợ xã hội được Nhà nước cấp thẻ bảo hiểm y tế, bao gồm:
a) Đối tượng quy định tại các khoản 1, 2, 3 và 5 Điều 5 Nghị định này;
b) Con của người đơn thân nghèo quy định tại Khoản 4 Điều 5 Nghị định này;
c) Người khuyết tật nặng và người khuyết tật đặc biệt nặng;
d) Người từ đủ 80 tuổi trở lên đang hưởng trợ cấp tuất bảo hiểm xã hội hàng tháng, trợ cấp hàng tháng khác mà chưa được cấp thẻ bảo hiểm y tế miễn phí…”
Như vậy, người khuyết tật nhẹ sẽ không được hưởng chế độ trợ cấp hàng tháng; hỗ trợ kinh phí chăm sóc; cấp thẻ bảo hiểm y tế cũng như mai táng phí khi qua đời.
Tuy nhiên, theo quy định tại Luật người khuyết tật năm 2010 và các văn bản liên quan thì người khuyết tật nhẹ sẽ được hưởng các hỗ trợ về giáo dục; dạy nghề và việc làm; văn hóa, thể dục, thể thao, giải trí và du lịch;…
Trên đây là tư vấn của chúng tôi. Chúng tôi hy vọng rằng, ý kiến tư vấn của chúng tôi sẽ giúp làm sáng tỏ các vấn đề mà bạn đang quan tâm. Trên từng vấn đề cụ thể, nếu bạn cần tham khảo thêm ý kiến chuyên môn của chúng tôi, xin hãy liên hệ trực tiếp với chúng tôi theo địa chỉ email: [email protected] hoặc qua Tổng đài tư vấn: 0936.65.3636 – 0972.17.27.57 để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Luật Sao Sáng. Trân trọng cảm ơn!
Theo khoản 1, Điều 2 Luật Người khuyết tật 2010, người khuyết tật là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn.
Cụ thể, theo quy định tại Điều 3 Nghị định 28/2012/NĐ-CP, người khuyết tật được chia theo mức độ khuyết tật sau đây:
1. Người khuyết tật đặc biệt nặng là những người do khuyết tật dẫn đến mất hoàn toàn chức năng, không tự kiểm soát hoặc không tự thực hiện được các hoạt động đi lại, mặc quần áo, vệ sinh cá nhân và những việc khác phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân hàng ngày mà cần có người theo dõi, trợ giúp, chăm sóc hoàn toàn.
2. Người khuyết tật nặng là những người do khuyết tật dẫn đến mất một phần hoặc suy giảm chức năng, không tự kiểm soát hoặc không tự thực hiện được một số hoạt động đi lại, mặc quần áo, vệ sinh cá nhân và những việc khác phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân hàng ngày mà cần có người theo dõi, trợ giúp, chăm sóc.
3. Người khuyết tật nhẹ là người khuyết tật không thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 điều này.
Thủ tục xác định mức độ khuyết tật được thực hiện theo quy định tại Điều 18 Luật người khuyết tật năm 2010:
Điều 18. Thủ tục xác định mức độ khuyết tật
1. Khi có nhu cầu xác định mức độ khuyết tật, người khuyết tật hoặc người đại diện hợp pháp của người khuyết tật gửi đơn đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người khuyết tật cư trú.
2. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận đơn đề nghị xác định mức độ khuyết tật, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm triệu tập Hội đồng xác định mức độ khuyết tật, gửi thông báo về thời gian xác định mức độ khuyết tật cho người khuyết tật hoặc người đại diện hợp pháp của họ.
3. Hội đồng xác định mức độ khuyết tật tổ chức việc xác định mức độ khuyết tật, lập hồ sơ xác định mức độ khuyết tật và ra kết luận.
4. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày có kết luận của Hội đồng xác định mức độ khuyết tật, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã niêm yết và thông báo công khai kết luận của Hội đồng xác định mức độ khuyết tật và cấp giấy xác nhận khuyết tật.
5. Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quy định chi tiết trình tự, thủ tục, hồ sơ xác định mức độ khuyết tật quy định tại Điều này.
Căn cứ Điều 44 Luật người khuyết tật 2010:
Điều 44. Trợ cấp xã hội, hỗ trợ kinh phí chăm sóc hàng tháng
1. Đối tượng hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng bao gồm:
a) Người khuyết tật đặc biệt nặng, trừ trường hợp quy định tại Điều 45 của Luật này;
2. Đối tượng được hỗ trợ kinh phí chăm sóc hàng tháng bao gồm:
a) Gia đình có người khuyết tật đặc biệt nặng đang trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc người đó;
b) Người nhận nuôi dưỡng, chăm sóc người khuyết tật đặc biệt nặng;
c) Người khuyết tật quy định tại khoản 1 Điều này đang mang thai hoặc nuôi con dưới 36 tháng tuổi.
3. Người khuyết tật quy định tại khoản 1 Điều này là trẻ em, người cao tuổi được hưởng mức trợ cấp cao hơn đối tượng khác cùng mức độ khuyết tật.
4. Mức trợ cấp xã hội hàng tháng, mức hỗ trợ kinh phí chăm sóc hàng tháng đối với từng loại đối tượng theo quy định tại Điều này do Chính phủ quy định.
Do đó, bạn cần làm thủ tục xác định mức độ khuyết tật theo quy định tại Điều 18 Luật khuyết tật để xác định mức độ khuyết tật của mình. Nếu như mức độ khuyết tật của bạn thuộc trường hợp nặng hoặc đặc biệt nặng thì sẽ được hưởng trợ cấp xã hội. Còn đối với trường hợp mức độ khuyết tật nhẹ thì sẽ không được hưởng trợ cấp.
Xem thêm: Bảo hiểm y tế cho người khuyết tật: Thủ tục cấp, mức hưởng
Trên đây là nội dung tư vấn về "Khuyết tật nhẹ có được hưởng chế độ gì không?” dựa trên những thông tin mà luật sư đã nhận được. Nếu còn bất kỳ thắc mắc nào liên quan, vui lòng liên hệ 19006192 để được hỗ trợ kịp thời. Xin cảm ơn!
Quý khách có bất kỳ vấn đề nào cần tư vấn, hãy đặt câu hỏi cho các luật sư để được tư vấn một cách nhanh chóng nhất!
Theo số liệu thống kê, tính đến 31 tháng 12 năm 2023, cả nước có khoảng trên 7 triệu người khuyết tật, chiếm 7,06% dân số từ 2 tuổi trở lên, trong đó có 28,3%, tương đương gần 2 triệu trẻ em [1]. Trong đó, các em bị tật nguyền chủ yếu ở các dạng như: điếc (khuyết tật thính giác, mất khả năng nghe); mù, lòa (khuyết tật thị giác - khiếm thị); què, quặt, liệt (khuyết tật vận động, bị tổn thương các cơ quan vận động như tay, chân, cột sống gây ra khó khăn trong việc cầm nắm, đi lại, đứng, ngồi hay nằm); câm (khuyết tật ngôn ngữ, bị tật ở cơ quan tiếp nhận chỉ huy ngôn ngữ vùng não và tổn thương của bộ phận phát âm làm ảnh hưởng đến ngôn ngữ giao tiếp của trẻ; thiểu năng não (khuyết tật trí tuệ, suy giảm năng lực nhận thức, chỉ số thông minh thấp, trẻ không thích nghi được các hoạt động xã hội); đa tật (bị nhiều loại khuyết tật cùng lúc)....
Trong số các em bị tàn tật, có rất nhiều em do sinh ra từ cha mẹ từng bị phơi nhiễm do ảnh hưởng chất độc da cam trong chiến tranh, phải tiếp tục mang những dị tật bẩm sinh cả về thể xác lẫn trí tuệ, thường bị các dị tật như hở hàm ếch, thiếu hoặc thừa ngón chân, ngón tay, não úng thủy, vô sọ, thoát vị não - màng não, thoát vị tủy - màng tủy...
Chúng ta, dù ít hay nhiều, trong khu dân cư, trên các con phố, hay trong các bệnh viện, trường học..., đã từng gặp những trẻ em chịu số phận đặc biệt như thế mới cảm nhận tận cùng sự mất mát, thiệt thòi. Có những em do di chứng của chất độc da cam có khi cả đời cuộc sống chủ yếu trong các bệnh viện, trung tâm bảo trợ xã hội. Có những em may mắn hơn, có thể không đi lại được nhưng lại nói được, vẫn có thể học hành được và làm được những việc nhẹ. Có những em tự kỷ từ bé, dù đi lại được nhưng lại vô thức, hò hét không rõ tiếng... Và có cả những em cả cuộc đời mấy chục năm từ lúc sinh ra đến lúc ra đi mãi mãi cũng chỉ cảm nhận lơ mơ, không rõ ai là bố, là mẹ đẻ của mình. Rồi có cả những trường hợp bất hạnh, đón nhận những tận cùng của nỗi đau khi phải xa đứa con ruột của mình, suốt cả mấy chục năm trời nuôi nấng, nhưng chủ yếu là ốm đau, bệnh tật, chưa biết gọi bố, gọi mẹ dù chỉ một lần!
Và điều đáng lo lắng là đa số các em bị khuyết tật đều trong các gia đình có hoàn cảnh khó khăn. Có những em bị mồ côi cha mẹ. Có những em bị bỏ rơi do khuyết tật. Có những em may mắn bị bệnh nhẹ được học hành, chăm sóc ở các trường, trung tâm nhân đạo. Nhưng không ít em thiệt thòi hơn, do gia đình rất nghèo nên phải kiếm sống ngoài đường phố bằng nhiều nghề để mưu sinh, chữa trị bệnh lúc đau, ốm...
Phác họa như thế để thấy trẻ em khuyết tật rất cần được quan tâm đặc biệt hơn nữa của Đảng, Nhà nước và cả xã hội. Và tất yếu đòi hỏi mỗi chúng ta cần phải làm, làm rất nhiều điều hơn nữa để có thể xoa dịu, vơi đi những thiệt thòi của các trẻ em khuyết tật. Thực tế cho thấy, trong những năm qua, trẻ em khuyết tật luôn được Đảng, Nhà nước và các cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể và cả xã hội quan tâm.
Báo cáo tại Hội nghị tổng kết hoạt động năm 2023 của Ủy ban Quốc gia về người khuyết tật Việt Nam [2], Cục trưởng Cục Bảo trợ xã hội Tô Đức cho biết: Thực hiện chính sách trợ giúp đời sống, cải thiện điều kiện sinh hoạt cho ngời khuyết tật (NKT), năm 2023, ngân sách Nhà nước đã bố trí 31,3 tỷ đồng thực hiện Nghị định số 20/2021/NĐ-CP ngày 15/3/2021 của Chính phủ về trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội và 489 tỷ đồng thực hiện chính sách hỗ trợ về giáo dục với NKT. Đã có 1,6 triệu NKT nặng và đặc biệt nặng, 342.329 gia đình, cá nhân nhận chăm sóc đối tượng bảo trợ xã hội tại cộng đồng được hưởng trợ cấp xã hội hằng tháng tại cộng đồng và hàng triệu NKT, trẻ em khuyết tật được nuôi dưỡng, chăm sóc trong các cơ sở trợ giúp xã hội.
Bên cạnh nguồn lực từ ngân sách Nhà nước, các tổ chức của NKT đã tích cực huy động nguồn lực xã hội để cải thiện đời sống và điều kiện sinh hoạt của NKT, điển hình như: Hội Bảo trợ NKT và trẻ mồ côi Việt Nam vận động được 552 tỷ đồng (bao gồm tiền mặt và hiện vật quy ra tiền); Hội Nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam và các Hội thành viên vận động tài trợ được gần 555 tỷ đồng; Hội Người mù Việt Nam vận động hơn trên 118 tỷ đồng và nhiều phần quà có giá trị; Hội Cứu trợ trẻ em tàn tật Việt Nam vận động được hơn 7,7 tỷ đồng (bao gồm 5,9 tỷ đồng tiền mặt và 1,8 tỷ đồng hiện vật quy ra tiền). Các hoạt động trợ giúp NKT được triển khai rất đa dạng, đáp ứng thiết thực nhu cầu của đối tượng được trợ giúp.
Năm 2023, nhiều NKT được dạy nghề, tạo việc làm và hỗ trợ sinh kế. Trong đó, Hội người mù Việt Nam mở 91 lớp cho 1.192 học viên học nghề xoa bóp bấm huyệt, tin học, chăn nuôi, đan lát. Hội Bảo trợ người khuyết tật và trẻ mồ côi Việt Nam dạy nghề cho 1.421 học viên, Hội Cứu trợ trẻ em tàn tật Việt Nam tổ chức 33 lớp dạy nghề cho 596 trẻ em khuyết tật... Thông qua nguồn vốn từ Quỹ quốc gia về việc làm và nguồn do Ngân hàng Chính sách xã hội huy động đã cho 1.314 dự án của người lao động là NKT vay vốn và tạo việc làm cho 8.838 lao động khuyết tật…
Nhưng rõ ràng là dù có cố gắng rất nhiều nhưng do nguồn ngân sách nhà nước còn nhiều khó khăn nên chính sách, dù ưu ái đến mấy vẫn chưa đủ sức chăm sóc đầy đủ trẻ em khuyết tật, nhất là lúc các em ốm đau, bệnh tật hiểm nghèo. Vì thế trẻ em khuyết tật và gia đình của các em vẫn còn rất nhiều khó khăn, rất cần sự quan tâm hơn nữa của Đảng, Nhà nước, bộ, ngành, của các cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể và sự chung tay đùm bọc, chở che, chăm sóc của cả xã hội.
Vì vậy, cần tăng cường tuyên truyền, truyền thông chính sách bảo trợ xã hội cho trẻ khuyết tật rộng rãi, thường xuyên trên các phương tiện thông tin đại chúng để nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể và các tầng lớp nhân dân trong việc chăm sóc sức khỏe, giáo dục, giúp trẻ khuyết tật hòa nhập cộng đồng.
Đặc biệt, nhân kỷ niệm Ngày Người khuyết tật Việt Nam 18/4 và tháng hành động vì trẻ em hằng năm, các cơ quan báo, tạp chí cần mở chuyên mục, tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền sâu rộng các chủ trương, chính sách, pháp luật về chăm sóc trẻ em khuyết tật như: Chỉ thị số 39-CT/TW, ngày 01/11/2019 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác người khuyết tật; Luật Người khuyết tật; Luật Trẻ em; Nghị định số 20/2021/NĐ-CP, quy định chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội; Đề án hỗ trợ trẻ em khuyết tật tiếp cận các dịch vụ bảo vệ, chăm sóc, giáo dục tại cộng đồng giai đoạn 2018 – 2025...
Đồng thời, nhân các sự kiện kỷ niệm Ngày Người khuyết tật Việt Nam, cần tổ chức các cuộc vận động với quy mô cả nước và cấp tỉnh, thành phố để quyên góp vật chất giúp đỡ trẻ em khuyết tật. Trên cơ sở tổng kết đợt quyên góp, đẩy mạnh tuyên truyền, cổ vũ, nhân rộng những tấm lòng nhân ái của các điển hình tập thể, cá nhân có nhiều thành tích trợ giúp trẻ em khuyết tật.
Ngoài ra, cần tiếp tục tuyên truyền, kêu gọi vận động thường xuyên các nhà tài trợ trong và ngoài nước trợ giúp sản xuất dụng cụ chỉnh hình, phẫu thuật và phục hồi chức năng cho trẻ em khuyết tật nặng; hỗ trợ trẻ khuyết tật học nghề, tạo việc làm; xây dựng các mô hình hỗ trợ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn học nghề gắn với tạo việc làm, liên kết với doanh nghiệp, vận động các nhà tài trợ hỗ trợ thử nghiệm mô hình này ở một số địa phương; khuyến khích nhận nuôi dưỡng trẻ khuyết tật trong các cơ sở bảo trợ xã hội của Nhà nước về nuôi dưỡng tại cộng đồng thông qua các hình thức gia đình hoặc cá nhân nhận nuôi dưỡng, nhận đỡ đầu, nhận nuôi con nuôi và chăm sóc tại Nhà xã hội; xây dựng mô hình điểm Nhà xã hội chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở cấp xã, phường; thí điểm việc chuyển đổi phương thức chăm sóc tập trung trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn tại các cơ sở bảo trợ xã hội của Nhà nước sang chăm sóc tập trung tại mô hình “gia đình quy mô nhỏ" ở các cơ sở bảo trợ xã hội của Nhà nước./.
(1) https://asvho.vn/uy-ban-quoc-gia-ve-nguoi-khuyet-tat-viet-nam-tong-ket-hoat-dong-nam-2023-va-de-ra-phuong-huong-nhiem-vu-nam-2024-a2477.html
(2) https://asvho.vn/uy-ban-quoc-gia-ve-nguoi-khuyet-tat-viet-nam-tong-ket-hoat-dong-nam-2023-va-de-ra-phuong-huong-nhiem-vu-nam-2024-a2477.html